Bệnh sốt xuất huyết : triệu chứng , con đường lây truyền và cách điều trị
bệnh sốt xuất huyết là căn bệnh lây nhiễm từ muỗi phổ biến ở Việt Nam và các nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Nhận biết chủ yếu sau khi nhiễm virus từ 4-10 ngày với các triệu chứng ban đầu là sốt cao, đau đầu, đau mỏi cơ, nôn, buồn nôn, v.v. Việc điều trị sốt Dengue chủ yếu nhằm giảm triệu chứng bệnh, hỗ trợ hệ miễn dịch chống lại virus, điều trị muộn có thể để lại biến chứng, thậm chí gây tử vong ở các trường hợp sốt thể nặng.
VIDEO HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG QUE THỬ MA TÚY
bệnh sốt xuất huyết là gì
Sốt xuất huyết (Dengue) là loại bệnh truyền nhiễm gây ra bởi muỗi vằn (Aedes). Chúng thường đốt vào ban ngày, ngay sau lúc mặt trời mọc và khoảng thời gian hoàng hôn. Hiện các nhà khoa học đã phát hiện ra có ít nhất 3 loại muỗi vằn có thể gây bệnh , chúng gồm Aedes aegypti, Aedes scutellaris và Aedes katherinensis.
Sốt xuất huyết thường xảy ra phổ biến ở các nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, ví dụ như:
- Châu phi
- vùng Ca-ri-bê
- Trung Mỹ
- Trung tâm Thái Bình Dương
- Trung Quốc
- Ấn Độ
- Trung Đông
- Nam Mỹ
- Đông Nam Á
- Nam Thái Bình Dương.
Sốt xuất huyết hiện nay phổ biến ở 129 quốc gia, và tiếp tục lan rộng theo sự nóng lên của toàn cầu. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ước tính có khoảng 100 – 400 triệu ca nhiễm trùng mỗi năm.
Sốt xuất huyết thể nhẹ gây sốt cao và các triệu chứng tương tự bệnh cúm, nhiễm Zika, nhiễm Chikungunya, sốt rét, sốt thương hàn, v.v. Trong khi đó, sốt xuất huyết thể nặng có thể gây xuất huyết nội tạng nghiêm trọng, giảm huyết áp đột ngột, thậm chí gây tử vong.
Vắc xin sốt xuất huyết đang được thúc đẩy nghiên cứu. Hiện nay, cách tốt nhất để ngăn ngừa lây nhiễm bệnh sốt xuất huyết là tránh bị muỗi đốt và thực hiện vệ sinh không gian sống sạch sẽ, hạn chế tối đa việc tạo điều kiện cho muỗi phát sinh.
que test ma túy tổng hợp fastep | ống thổi máy đo nồng độ cồn
Nhận biết sốt xuất huyết bằng cách nào
Sốt xuất huyết thể nhẹ
Nhận biết sốt xuất huyết khi virus mới xâm nhập vào cơ thể là điều hiếm gặp, vì lúc này hầu hết trong cơ thể người nhiễm chưa có bất kỳ triệu chứng nào liên quan đến sốt xuất huyết.
Sau khi bị muỗi cắn được 4 – 10 ngày mới xuất hiện các triệu chứng đầu tiên với tính chất tương tự bệnh cúm. Chúng gồm có sốt cao (lên tới 40 độ C) kèm theo một hoặc nhiều biểu hiện sau: Đau đầu, đau mỏi cơ, buồn nôn, nôn, phát ban ( (có thể xuất hiện 2 – 5 ngày sau khi bắt đầu sốt), đau sau mắt, sưng hạch bạch huyết.
Phát ban trên cơ thể có xu hướng xuất hiện muộn hơn một chút sau khi phát bệnh. Việc không có phát ban được xác định là một yếu tố nguy cơ của bệnh sốt xuất huyết thể nặng, phần lớn là do không nhận biết được bệnh.
Hầu hết các triệu chứng của sốt xuất huyết sẽ biến mất trong vòng một tuần hoặc lâu hơn. Tuy nhiên, một số trường hợp bệnh chuyển nặng có thể gây đe dọa đến tính mạng.
Sốt xuất huyết thể nặng
Sốt xuất huyết thể nặng gây tổn thương nghiêm trọng các mạch máu, làm giảm lượng tế bào tiểu cầu. Điều này có thể gây sốc, chảy máu trong, suy nội tạng, thậm chí gây tử vong. Có khoảng 1 trên 20 người bị sốt xuất huyết sẽ tiến triển nặng. Trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người có hệ miễn dịch suy yếu hoặc đã mắc bệnh nhiều lần có nguy cơ bị biến chứng sốt xuất huyết cao hơn.
Các dấu hiệu cảnh báo sốt xuất huyết nặng thường bắt đầu vào ngày đầu tiên hoặc hai ngày sau khi hết sốt, bao gồm:
- Đau bụng dữ dội
- Nôn mửa liên tục
- Tiểu cầu thấp kèm theo chảy máu ở dạ dày, khớp, cơ, nướu, mũi và não (sốt xuất huyết Dengue)
- Hạ huyết áp / tụt huyết áp (hội chứng sốc Dengue)
- Tiểu ra máu, hoặc có máu phân, chất nôn
- Chảy máu dưới da trông giống như bầm tím
- Khó thở hoặc thở nhanh
- Mệt mỏi
- Khó chịu hoặc bồn chồn
- Phù tay chân
Sốt dengue thể nặng có thể làm tăng nguy cơ tử vong lên tới 20%, gây đe dọa tính mạng trong vòng vài giờ. Điều này được giải thích là do khi bị nhiễm trùng nặng, các tế bào tiểu cầu ( (mảnh tế bào nhỏ hình thành cục máu đông để cầm máu) giảm mạnh, dẫn đến chảy máu ở các cơ quan nội tạng, đặc biệt là ở đường tiêu hóa. Vì vậy, khi có các biểu hiện trên, cần đưa người bệnh đến cơ sở y tế gần nhất để được điều trị kịp thời, hạn chế gây nguy hiểm đến tính mạng.
Nguyên nhân gây sốt xuất huyết
Có bốn loại virus Dengue gồm DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Tất cả chúng đều lây bệnh cho người thông qua một loài muỗi có tên là Aedes aegypti, và hiếm hơn là do muỗi Aedes albopictus. Nếu bạn đã từng bị mắc Sốt xuất huyết do nhiễm 1 trong 4 loại Virus trên , Bạn sẽ có khả năng được miễn dịch suốt đời đối với loại Virus đó .Tuy nhiên bạn vẫn hoàn toàn có khả năng bị mắc lại gây ra bởi 1 trong 3 loại Virus còn lại.
Các loại vi rút sốt xuất huyết đã chuyển từ khỉ sang người giữa 100 và 800 năm trước, nhưng sốt xuất huyết vẫn là một vấn đề nhỏ cho đến giữa thế kỷ XX.
Virus được truyền từ muỗi bị nhiễm bệnh sang người. Virus không lây từ người sang người, mà chỉ lây qua muỗi cắn. Sốt xuất huyết có thể bị lại nhiều lần, lần sau thường có nguy cơ nặng hơn lần trước.
Yếu tố nguy cơ gây sốt xuất huyết
- Sống hoặc đi du lịch ở các nước nằm trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là các khu vực có nguy cơ cao như Đông Nam Á, Châu Phi.
- Có tiền sử mắc bệnh sốt xuất huyết. Người đã từng nhiễm virus sốt xuất huyết có nguy cơ bị nặng hơn khi tái nhiễm.
Biến chứng bệnh sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết thể nặng có thể gây nhiều biến chứng nghiêm trọng, trong đó có xuất huyết nội tạng, tụt huyết áp gây sốc. Trong một số trường hợp, sốt thể nặng có thể gây tử vong.
Phụ nữ mang thai bị sốt xuất huyết có thể lây virus sang em bé trong khi sinh. Ngoài ra, còn có các nguy cơ tiềm ẩn khác trong quá trình mang thai như sinh non, nhẹ cân, hoặc suy thai. Trong một số trường hợp hiếm hoi, bệnh sốt xuất huyết còn có thể lây truyền từ các cơ quan được cấy ghép, truyền máu từ người hiến tặng bị nhiễm bệnh.
Phòng ngừa bệnh sốt xuất huyết
Vắc xin sốt xuất huyết
Vắc xin sốt xuất huyết (Dengvaxia) được chấp thuận sử dụng cho người từ 9 – 45 tuổi, sinh sống ở các khu vực có tồn tại bệnh sốt xuất huyết phổ biến và có tiền sử mắc sốt xuất huyết ít nhất 1 lần. Việc chủng ngừa ở những người chưa từng mắc sốt xuất huyết có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh nặng, phải nhập viện sau này. Thuốc được tiêm ba liều trong suốt 12 tháng.
Các biện pháp ngăn ngừa muỗi đốt
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã nhấn mạnh vắc xin không phải là công cụ hữu hiệu trong việc giảm số người mắc bệnh sốt xuất huyết ở những khu vực có tỷ lệ mắc cao. Chỉ có hạn chế muỗi đốt và kiểm soát số lượng muỗi vằn mới có thể ngăn ngừa mức độ lây lan của bệnh sốt xuất huyết.
Nếu bạn sống trong vùng có nguy cơ cao bị sốt xuất huyết thì nên áp dụng một số mẹo sau để hạn chế nguy cơ bị muỗi đốt:
- Mặc quần áo bảo hộ: áo sơ mi dài tay, quần dài, đi tất và đi giày khi đến khu vực có nguy cơ cao bị muỗi đốt.
- Sử dụng kem chống muỗi permethrin bôi lên quần áo, giày dép, dụng cụ cắm trại và ga trải giường hoặc mua quần áo đã có sẵn permethrin trong đó.
- Muỗi mang virus sốt xuất huyết thường sống trong và xung quanh nhà, sinh sản ở vùng nước đọng có thể tích tụ trong những thứ như lốp ô tô, chai, lon, xoong nồi đã bỏ đi và các thiết bị hỏng. Vì vậy, bạn nên giảm số lượng muỗi bằng cách loại bỏ môi trường sống nơi chúng đẻ trứng. Ít nhất một lần một tuần, đổ và làm sạch các thùng chứa nước đọng, chẳng hạn như thùng trồng cây, đĩa cho động vật ăn và lọ hoa. Đậy kín các dụng cụ chứa nước đọng giữa các lần vệ sinh.
- Thuốc chống muỗi: Sử dụng thuốc chống muỗi có nồng độ diethyltoluamide (DEET) ít nhất 10%, hoặc nồng độ cao hơn để duy trì thời gian tiếp xúc lâu hơn và tránh sử dụng DEET cho trẻ nhỏ.
- Màn chắn cửa ra vào và cửa sổ: Các rào cản kết cấu, chẳng hạn như lưới chắn, có thể ngăn muỗi vào phòng.
- Sử dụng màn chống muỗi (tốt nhất là màn đã qua xử lý thuốc diệt côn trùng)
- Tránh mùi hương có thể thu hút muỗi từ xà phòng và nước hoa có mùi thơm nồng.
- Về thời gian, cố gắng hạn chế ra ngoài vào lúc bình minh, hoàng hôn và đầu giờ tối.
- Đối với trẻ em, có thể an toàn hơn khi xịt thuốc chống côn trùng lên quần áo của chúng hơn là trên da của chúng.
- Ngủ dưới màn (màn) đã được phun hoặc tẩm thuốc diệt côn trùng như permethrin hoặc deltamethrin.
- Sử dụng bình xịt côn trùng bay trong nhà xung quanh khu vực ngủ.
Để giảm nguy cơ muỗi sinh sản trong nước tù đọng, bạn có thể sử dụng một số cách sau:
- Lật ngược xô và bình tưới nước và cất chúng dưới mái che để nước không thể tích tụ và loại bỏ nước thừa từ các chậu cây
- Cọ rửa các thùng đựng để loại bỏ trứng muỗi
- Xới đất cho chậu cây thường xuyên để ngăn hình thành vũng nước trên bề mặt
- Đảm bảo cống rãnh thoát nước không bị tắc, không đặt chậu cây và các đồ vật khác lên trên
- Dưới máy điều hòa không được đặt bất kỳ ổ cắm nào, thay nước trong lọ hoa mỗi ngày và cọ rửa sạch sẽ bên trong lọ
- Khi cắm trại hoặc dã ngoại, hãy chọn một khu vực cách xa vùng nước tĩnh.
Đặc điểm lâm sàng của người bị bệnh sốt xuất huyết
Có tới 40–80% tổng số ca nhiễm sẽ không có triệu chứng. Các triệu chứng lâm sàng thường được báo cáo bao gồm đột ngột sốt cao, đau đầu dữ dội, đau cơ, đau khớp, phát ban và xuất huyết nhẹ. Sốt và các triệu chứng khác thường theo chuỗi lên xuống, thuyên giảm nhanh chóng sau ngày thứ ba. Bệnh hiếm khi kéo dài trên 10 ngày, nhưng thời gian dưỡng bệnh có thể kéo dài và gây suy nhược.
Khoảng dưới 5% số trường hợp mắc sốt xuất huyết có bệnh nặng lên, một phần trong số đó có nguy cơ bị tử vong. Hầu hết các trường hợp nghiêm trọng và tử vong xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên. Sốt xuất huyết nặng – thường được gọi là Sốt xuất huyết Dengue / Hội chứng sốc Dengue (SXHD / DSS)’ để phân biệt với sốt xuất huyết ‘cổ điển’ (DF).
Nguyên nhân gây sốt thể nặng đã được tranh luận trong nhiều thập kỷ nhưng vẫn chưa đưa ra được kết luận cuối cùng. Trong đó, giả thuyết đang được nhiều sự quan tâm là sự phụ thuộc vào kháng thể ADE tăng cao sau khi virus xâm nhập sâu vào các mạch máu trong cơ thể. Việc giải đáp các tranh cãi về giả thuyết gặp nhiều khó khăn do không có thử nghiệm trên loài động vật nào đáng tin cậy. Ngoài ra, việc phân loại mức độ nghiêm trọng của sốt xuất huyết vẫn chưa được thống nhất. Cả hai vấn đề này đều có tầm quan trọng hàng đầu trong việc quản lý và điều trị người bệnh cũng như sự chấp thuận các loại vắc xin sốt xuất huyết trong tương lai.
Quá trình lây truyền bệnh sốt xuất huyết
- Thời gian ủ bệnh sốt xuất huyết là từ 3 đến 14 ngày, trung bình là 4-7 ngày.
- Viraemia (thuật ngữ chỉ các loại virus có trong máu) đạt nồng độ cao vào ngày trước khi bắt đầu các triệu chứng và nói chung là đủ cao để lây nhiễm muỗi trong 4 ngày tiếp theo.
- Khả năng miễn dịch đối với loại virus đã gây sốt xuất huyết trên cơ thể là suốt đời, (không còn nguy cơ nhiễm loại virus sốt xuất huyết đã mắc phải), nhưng không miễn dịch với ba chủng còn lại.
- Con người là vật chủ khuếch tán chính của virus, ở các khu vực đô thị vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, virus được duy trì nòi giống theo chu kỳ con người / muỗi.
- Vết đốt từ muỗi bị nhiễm bệnh là phương thức lây truyền duy nhất.
- Muỗi nhiễm virus sốt xuất huyết khi chúng ăn vật chủ có chứa virus, sau 5 – 14 ngày, virus sẽ lây nhiễm sang nhiều mô cơ quan trong cơ thể muỗi, bao gồm cả các tuyến nước bọt. Mặc dù có thể mất vài tuần (và nhiều bữa hút máu) để bị lây nhiễm, nhưng muỗi sẽ bị nhiễm suốt đời. Người bị nhiễm virus sốt xuất huyết qua vết muỗi cắn, khi nước bọt có chứa virus từ muỗi xâm nhập vào cơ thể. Trong thời kỳ ủ bệnh môi trường ngoài, thời gian để muỗi bị nhiễm virus là khoảng 10 ngày ở 27°C.
- Có một số bằng chứng cho thấy khỉ rừng tham gia vào ‘vòng tuần hoàn trong rừng’ với muỗi rừng làm vật trung gian truyền bệnh ở Đông Nam Á và Tây Phi. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy những virus này là nguyên nhân gây ra các vụ dịch lớn.
- Virus chủ yếu tồn tại và lan truyền bệnh ở các khu vực làng quê vì sinh vật trung gian chính là Aedes aegypti, có rất nhiều trong môi trường nông thôn. Loài muỗi này chủ yếu hút máu người, sinh sản trong các đồ vật nhỏ có chứa nước, sống bên trong các tòa nhà và hiếm khi tìm thấy nơi cách xa con người quá 50 mét, muỗi có xu hướng hút máu người vào ban ngày.
- Sinh vật trung gian lây truyền sốt xuất huyết khác là muỗi vằn châu Á, Aedes albopictus, cũng tồn tại phổ biến trong môi trường nông thôn, đặc biệt là các khu vực đô thị có nhiều thảm thực vật. Tuy nhiên, nó được xem là vectơ ‘phụ’ vì ít khi hút máu người, mà chủ yếu hút máu động vật không mẫn cảm với virus sốt xuất huyết nên không tham gia và chu trình lây bệnh. Tuy nhiên, dịch bệnh đã xảy ra ở những nơi muỗi này là loài vật trung gian duy nhất hiện diện.
- Aedes aegypti đã từng có mặt ở châu Âu và là nguyên nhân gây ra các vụ dịch lớn sốt vàng da và sốt xuất huyết. Sự biến mất của nó sau Thế chiến II chưa được giải thích rõ. Hiện tại nó đã có mặt ở Madeira và có thể hình dung được rằng nó có thể được tái lập và tồn tại phổ biến rộng rãi ở Châu Âu.
- Muỗi Aedes albopictus hiện nay ở miền nam châu Âu cũng đang thích nghi với nhiệt độ mùa đông, và có khả năng mở rộng phạm vi về phía bắc. Nó đã là một mối phiền toái lớn ở một số quốc gia Địa Trung Hải, và là nguyên nhân gây ra các ca sốt xuất huyết ở Pháp và Croatia vào năm 2010.
Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
- Bộ gen của vi rút bệnh sốt xuất huyết có thể được phát hiện bằng RT-PCR trong các mẫu máu cho đến ngày thứ 5 của bệnh.
- Một cách tiếp cận khác là phát hiện kháng nguyên bệnh sốt xuất huyết không cấu trúc 1 (NS1) cho đến ngày thứ 4 sau khi bệnh khởi phát. Tuy nhiên, độ nhạy của xét nghiệm phụ thuộc vào loại huyết thanh.
- Việc xác định kiểu huyết thanh và kiểu gen của bệnh sốt xuất huyết rất quan trọng đối với các nghiên cứu dịch tễ học; việc lưu hành đồng thời các tuýp huyết thanh sốt xuất huyết khác nhau trong một đợt bùng phát không phải là hiếm.
- Việc phân lập virus được thực hiện cho mục đích nghiên cứu.
- Chẩn đoán huyết thanh học có thể được thực hiện bằng cách phát hiện kháng thể IgM Dengue trong bệnh phẩm huyết thanh từ ngày thứ 5-6 của bệnh, hoặc phát hiện kháng thể IgG đặc hiệu tăng gấp 4 lần trên một cặp huyết thanh.
- Trong trường hợp nhiễm sốt xuất huyết thứ phát, kháng thể IgM sốt xuất huyết thường xuất hiện sớm hơn từ ngày thứ 2-3 sau khi khởi phát và với thời gian ngắn hơn. Sự gia tăng của kháng thể IgG sốt xuất huyết phải được đo.
- Các phản ứng chéo huyết thanh học giữa virus sốt xuất huyết và các chi virus Flavi có liên quan chặt chẽ cần được báo cáo.
Cụ thể việc chẩn đoán sốt xuất huyết dựa trên các tiêu chí sau:
Tiêu chí lâm sàng: – Sốt
Tiêu chí phòng xét nghiệm
- Trường hợp có thể xảy ra:
– Phát hiện kháng thể IgM đặc hiệu cho bệnh sốt xuất huyết trong một mẫu huyết thanh duy nhất
- Trường hợp xác nhận: Ít nhất một trong năm điều sau:
– Phân lập virus sốt xuất huyết từ bệnh phẩm;
– Phát hiện axit nucleic của vi rút sốt xuất huyết từ bệnh phẩm;
– Phát hiện kháng nguyên vi rút sốt xuất huyết từ bệnh phẩm;
– Phát hiện kháng thể IgM đặc hiệu cho bệnh sốt xuất huyết trong một mẫu huyết thanh duy nhất xác nhận ADN bằng phương pháp trung hòa;
– Chuyển đổi huyết thanh hoặc tăng kháng thể gấp 4 lần kháng thể đặc hiệu sốt xuất huyết trong các mẫu huyết thanh được ghép nối
Tiêu chí dịch tễ học
Tiền sử du lịch hoặc cư trú trong một khu vực có ghi chép về sự lây truyền bệnh sốt xuất huyết, trong khoảng thời gian 2 tuần trước khi bắt đầu các triệu chứng
Phân loại trường hợp
- Trường hợp ít có khả năng mắc bệnh
- Trường hợp có thể mắc bệnh: Bất kỳ người nào đáp ứng một trong các tiêu chí lâm sàng và dịch tễ học, và các tiêu chí phòng xét nghiệm có thể xảy ra.
- Trường hợp đã xác nhận: Bất kỳ người nào đáp ứng các tiêu chí phòng xét nghiệm cho một trường hợp đã được xác nhận.
Điều trị bệnh sốt xuất huyết
Không có phương pháp điều trị đặc hiệu cho vi rút sốt xuất huyết. Thay vào đó, sử dụng kết hợp nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát tình trạng sức khỏe thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh sốt xuất huyết. Hầu hết các trường hợp nhiễm virus sốt xuất huyết không biến chứng sẽ khỏi hoàn toàn trong vòng 1 đến 2 tuần.
Điều trị bệnh sốt xuất huyết thể nhẹ
- Ngăn ngừa tình trạng mất nước: Sốt cao và nôn mửa có thể khiến cơ thể bị mất nước. Bạn nên uống nước sạch, nước đóng chai hơn là nước máy. Nước muối cũng có thể giúp thay thế chất lỏng và khoáng chất.
- Thuốc giảm đau, chẳng hạn như Tylenol hoặc paracetamol có thể giúp hạ sốt và giảm đau. Không nên dùng thuốc chống viêm không steroid (NSAID), chẳng hạn như aspirin hoặc ibuprofen, vì đặc tính làm loãng máu có thể làm tăng nguy cơ xuất huyết nội tạng.
Điều trị bệnh sốt xuất huyết thể nặng
- Truyền dịch và dưỡng chất qua đường tĩnh mạch (IV), hoặc nhỏ giọt, để thay thế các chất điện giải đã mất.
- Truyền máu, cho bệnh nhân mất nước nặng
- Nhập viện sẽ cho phép người bệnh được theo dõi đúng cách, trong trường hợp các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn.
Muỗi Aedes Aegypti lây truyền bệnh sốt xuất huyết
- Vi rút gây bệnh sốt xuất huyết chủ yếu lây truyền qua muỗi cái thuộc loài Aedes aegypti
- Muỗi Aedes Aegypti cũng là vật trung gian truyền bệnh chikungunya, sốt vàng da và vi rút zika
- Muỗi Aedes Aegypti đốt ban ngày với thời gian cao điểm vào lúc bình minh và chiều tối
- Muỗi Aedes Aegypti chỉ bay những khoảng cách ngắn từ xung quanh địa điểm chăn nuôi
- Muỗi Aedes Aegypti cái có thể đẻ 100 – 200 trứng mỗi đợt
- Trứng có thể tồn tại trong vài tháng nếu không có nước
- Muỗi Aedes Aegypti có chu kỳ sống từ 8 – 10 ngày trong bốn giai đoạn
- Trứng nở thành ấu trùng khi ngập trong nước
- Sâu non phát triển thành nhộng trong 5 ngày, nhộng phát triển thành muỗi bay trong 2 – 3 ngày
Bệnh sốt xuất huyết ở trẻ nhỏ
Dưới đây là một số dấu hiệu và triệu chứng phổ biến của bệnh sốt xuất huyết ở trẻ em mà cha mẹ nên chú ý:
- Sốt cao, thậm chí có thể cao tới 40 độ C: Trong hầu hết các trường hợp, sốt xuất huyết ở trẻ em bắt đầu với các triệu chứng giống cúm như sốt cao, sổ mũi, ho và suy nhược.
- Đau đầu dữ dội: Trẻ có thể trải qua cảm giác khó chịu về thể chất như đau đầu, đau nhói sau mắt, đau nhức cơ và khớp, v.v.
- Thay đổi hành vi: Trẻ có thể cáu kỉnh và quấy khóc hơn bình thường. Mức độ thèm ăn của trẻ sẽ giảm xuống và cũng có thể quan sát thấy sự thay đổi trong cách ngủ.
- Phát ban khắp cơ thể: Một triệu chứng phổ biến của bệnh sốt xuất huyết là phát ban ngứa trên da xuất hiện thành từng mảng. Một triệu chứng khác cần chú ý là ngứa liên tục có thể xuất hiện ở lòng bàn chân.
- Chảy máu mũi hoặc nướu
- Bầm tím nhẹ
Nhìn chung, sốt, phát ban, và đau đầu thường được gọi là bộ ba đặc trưng của bệnh sốt xuất huyết. Sốt xuất huyết còn có tên gọi khác là bệnh sốt phát ban hoặc sốt gãy xương do cơn đau nhức xương và cơ mà nó gây ra. Thông thường, cơn đau có thể đến mức như bị gãy xương.
Để hỗ trợ làm giảm triệu chứng bệnh sốt xuất huyết cho trẻ, các bậc phụ huynh cần:
- Đảm bảo trẻ uống đủ nước, được cung cấp các bữa ăn lành mạnh và giấc ngủ ngon. Chế độ ăn uống lành mạnh và nghỉ ngơi đầy đủ sẽ giúp tăng cường miễn dịch và khả năng tiêu diệt virus.
- Thuốc giảm đau như acetaminophen được kê trong trường hợp trẻ bị đau nhức cơ và khớp do sốt xuất huyết. Ngoài ra, nên tránh dùng các loại thuốc giảm đau như aspirin hoặc ibuprofen, vì chúng có thể tăng nguy cơ xuất huyết.
- Đối với các trường hợp sốt xuất huyết nặng, truyền dịch và điện giải đường IV để bù lượng chất lỏng đã mất do nôn hoặc tiêu chảy. Một số khác cần phải truyền máu trong điều trị bệnh.
- Cho trẻ uống nước ép ổi để tăng cường khả năng miễn dịch, nước ép đu đủ để tăng lượng tiểu cầu, điều này giúp hỗ trợ điều trị sốt xuất huyết hiệu quả. Ngoài ra, các loại trái cây họ cam quýt, hạnh nhân, nghệ, tỏi, cũng có tác dụng tăng cường miễn dịch cho trẻ.
- Hạn chế tối đa nguy cơ muỗi đốt trẻ vì điều này sẽ giúp ngăn ngừa sự lây lan bệnh sốt xuất huyết sang người khác.